1. Tính năng
– Theo dõi liên tục các thông số huyết động, trên cả người lớn, trẻ em, trẻ sơ sinh
– Màn hình cảm ứng màu 12”, độ phân giải cao
– Tích hợp phần mềm iControl ™
– Pin sạc đầy sử dụng được ít nhất 20 phút
– Dữ liệu bệnh nhân được ghi lại theo từng khoảng thời gian tùy chọn để đánh giá và xuất dữ liệu
– Giao diện USB để sao lưu, in ấn dữ liệu bệnh nhân dưới định dạng PDF
2. Thông số theo dõi
2.1 Dòng máu
– SV/SI: Thể tích nhát bóp/ Chỉ số thể tích nhát bóp
– HR: Nhịp tim
– CO/CI: Cung lượng tim/ Chỉ số cung lượng tim
2.2 Hệ thống mạch
– NIBP: Huyết áp không xâm lấn
– SVR/ SVRI: Sức cản mạch hệ thống/ Chỉ số sức cản mạch hệ thống
– SVR- Dựa trên MAP và CVP
2.3 Sức co bóp
– ICON™: Chỉ số co bóp
– VIC™: Biến thiên chỉ số co bóp tim trái
– LCW / LCWI: Hoạt động của tim dựa trên chỉ số của áp lực động mạch phổi bít (PAOP)
– LSW / LSWI: Chức năng bóp tim trái
– STR: Tỉ số thời gian tâm thu (PEP/LVET)
– CPI: Chỉ số hoạt động tim
2.4 Thể tích dịch
– TCF: Thể tích dịch lồng ngực
– SVV: Độ biến thiên thể tích nhát bóp
– FTC: Thời gian tống máu hiệu chỉnh, theo nhịp tim 60/ phút
2.5 Tích hợp oxy MASIMO SET® Rainbow® (Tùy chọn)
– SpO2: Bão hòa oxy máu
– SpHb™: Tổng mức Hemoglobin
– SpCO: Mức nồng độ CO
– PI / PI Change: Chỉ số tưới máu / Chỉ số bão hòa phần trăm thay đổi PI
– DO2 / DO2I: Phân phối 0xy / Chỉ số DO2 dựa trên thông số Hemoglobin và SpO2
3. Cơ chế hoạt động
Dán bốn sensor ở cổ và ngực phía bên trái cho phép hệ thống đo được liên tục sự thay đổi về độ dẫn điện trong lồng ngực. Bằng cách truyển một dòng điện với biên độ thấp và tần số cao qua lồng ngực điện trở của các mặt được đo lại (do một số tác nhân). Thông qua các kỹ thuật lọc tiên tiến, phương pháp đo điện tim (EC™) có thể xác định được sự thay đổi về độ dẫn xảy ra do hệ thống tuần hoàn. Bằng cách phân tích tốc độ thay đổi độ dẫn điện trước và sau khi mở van động mạch chủ, hay nói cách khác, tốc độ điều chỉnh của RBCs, công nghệ EC có thể ghi lại được gia tốc máu động mạch chủ cực đại và thời gian tống máu thất trái (flow time). Vận tốc của dòng máu được tính toán từ gia tốc máu động mạch chủ cực đại và từ đó suy ra thể tích nhát bóp bằng thuật toán tiên tiến
NGHIÊN CỨU TRÊN NGƯỜI LỚN
- Theo dõi cung lượng tim liên tục không xâm lấn trong khi vận động mạnh: so sánh phương pháp đo điện tim bằng Fick và phương pháp pha loãng nhiệt qua phổi.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4913407/
Tác giả: Liu Y H và cộng sự
Quốc gia: Anh. Năm 2016
Cơ sở: Test bài tập vận động tim phổi (CPET) là một thủ thuật chẩn đoán quan trọng và các biến số trao đổi khí cùng với các thông số huyết động học xâm lấn được đo trong quá trình CPET cung cấp thông tin chẩn đoán và tiên lượng liên quan đến những bệnh nhân có nhiều bệnh lý tim phổi, chẳng hạn như suy tim và tăng áp phổi.
Đo lưu lượng tim (CO) và thể tích nhát bóp (SV) tương ứng với các mức độ vận động khác nhau là một yếu tố quan trọng của CPET. CO trong CPET thường được đo bằng phương pháp Fick. Do tính phức tạp của nó, pha loãng nhiệt qua phổi (TD) thường được sử dụng như một phương pháp thay thếm, tuy nhiên TD có độ xâm lấn như Fick do cần đặt catheter động mạch phổi. Do đó, phát triển của các kỹ thuật không xâm lấn để đo CO là cần thiết.
Đo thông số tim điện học™ (EC) là một dạng tiên tiến đo trở kháng sinh học xuyên ngực để đo CO không xâm lấn
Mục đích nghiên cứu:
(i) để so sánh CO thu được bằng phương pháp Fick (COFick) và EC (COEC; AESCULON®; Cardiotronic, La Jolla, CA, USA) khi nghỉ và cách nhau 1 phút trong quá trình CPET cường độ tăng dần; và
(ii) so sánh CO thu được với quá trình pha loãng nhiệt (COTD), Fick và EC trước khi tập luyện vì giá trị COTD không đo được trong quá trình luyện tập đặc biệt.
Đối tượng: 47 bệnh nhân (≥18 tuổi) bị khó thở khi gắng sức được đo CPET chu kỳ thẳng tăng dần lên tối đa với theo dõi huyết động xâm lấn (MedGraphics, St Paul, MN, USA).
Phương thức và kết quả:
Các bệnh nhân vận động trong 7,3 (1,8 sd) phút, đạt được 114,6 (53,7 sd) W. Trong quá trình tập luyện, chúng tôi tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa giữa COFick và COEC (r2 = 0,89, P <0,0001; Hình 11a). Phân tích Bland-Altman chỉ ra độ chệch (chênh lệch trung bình) là 0,62 lít/ phút và giới hạn cho phép 95% (1,96 x sd) là 2,77 lít/phút. Sai số phần trăm (95 % giới hạn cho / CO trung bình) là 29,2%. Phân tích CO ở trạng thái nghỉ cho thấy độ lệch và giới hạn 95% trong 0,28 và 2,00 lít/ phút giữa COEC và COFick và 0,30 và 2,20 lít/ phút giữa COTD và COFick, tương ứng. Phần trăm sai số lần lượt là 36,8 và 38,8% đối với COEC và COTD.
Kết luận: Cho thấy EC có thể theo dõi hướng thay đổi của CO trong quá trình CPET. Độ chính xác của COEC so với COFick trong quá trình thực hiện nằm trong tiêu chí chấp nhận được, tức là phần trăm sai số ≤30%. Các ưu điểm của EC, bao gồm an toàn, thân thiện với người dùng và chi phí thấp có thể đem lại nhiều lợi ích về mặt lâm sàng khi sử dụng EC trong CPET .
- Điều chỉnh tình trạng thừa dịch bằng phương thức không xâm lấn ở bệnh nhân nặng đang điều trị thay thế thận. Vai trò của đo thông số tim điện học™ (EC)
Fulltext: https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S2090730316300263
Tác giả: Mahmoud K H và cộng sự
Quốc gia: Ai Cập. Năm 2016
Cơ sở: đo thông số tim điện học™ cho phép đo tình trạng dịch cơ thể bằng cách sử dụng thông số dịch trong lồng ngực (TFC), cung lượng tim, chỉ số tim, chỉ số sức cản mạch hệ thống, có thể là phương pháp theo dõi huyết động không xâm lấn lý tưởng cho bệnh nhân đang chạy thận nhân tạo (HD).
Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa sự thay đổi TFC và lượng dịch thải ra trong phiên chạy thận và theo dõi các thông số huyết động để tránh các đợt rối loạn huyết động trong chạy thận.
Đối tượng: 30 bệnh nhân nặng chạy thận nhân tạo
Phương pháp: Đánh giá lâm sàng về thừa dịch và thông số huyết động (HA, MAP, CVP), được theo dõi bằng đo thông số tim điện học ICON® trước và trong chạy thận
Kết quả: Có mối tương quan thuận giữa thể tích dịch siêu lọc (UF) và TFC (r = 0,410, P = 0,025). Trong số 30 bệnh nhân được nghiên cứu, 18 bệnh nhân (60%) ổn định về huyết động so với 12 bệnh nhân (40%) có hạ huyết áp ở nhóm không đáp ứng và có TFC thấp hơn so với nhóm ổn định về huyết động (26,45 kohm -1 so với 37,8 kohm -1 ) với giá trị P là 0,004 cho thấy họ bị giảm thể tích. Trong số 30 BN được nghiên cứu, 18 bệnh nhân (60%) không bị tắc nghẽn so với 12 bệnh nhân (40%) vẫn bị tắc nghẽn dai dẳng sau khi hoàn thành phiên chạy thận với TFC cao hơn đáng kể khi so sánh với những người đã thoát khỏi tắc nghẽn (43,14 ± 9,9 kohm -1 so với 25,44 ± 5,5 kohm-1) với giá trị P là 0,0001 cho thấy chúng vẫn còn tăng thể tích.
Sử dụng phân tích đường cong ROC TFC ở 25,34 kohm-1 là một yếu tố dự báo có ý nghĩa về hạ huyết áp với giá trị P là 0,002, AUC 83,4%, (độ nhạy 67% và độ đặc hiệu 100%). Ngoài ra, giá trị ngưỡng TFC dự đoán tắc nghẽn dai dẳng là 37,02 kohm-1 với giá trị P là 0,0001, AUC 95,8%, độ nhạy 83% và độ đặc hiệu 100%
Kết luận: đo thông số tim điện học là một công cụ không xâm lấn đang phát triển để điều chỉnh tình trạng chất lỏng của bệnh nhân nặng trên bệnh nhân thay thế thận bằng cách điều chỉnh lượng thể tích dịch trong lồng ngực như một chỉ số về tình trạng dịch cơ thể để tránh sự bất ổn định về huyết động, tình trạng quá tải và tắc nghẽn liên tục trong và sau phiên chạy thận
- Đánh giá tại giường ở bệnh nhân suy tuần hoàn cấp tính bằng phương pháp đo cảm biến tim điện học
Tác giả: Soliman R và cộng sự
Quốc gia: Ai Cập. Năm 2016. Journal of Medical Diagnostic Methods
Cơ sở: Đánh giá sự thay đổi thể tích nhát bóp (SVV) bằng cách sử dụng phương pháp đo cảm biến tim điện học có thể cung cấp một giải pháp thay thế cho các thao tác xâm lấn để xác định phản ứng của chất lỏng.
Đối tượng nghiên cứu: 30 bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết nặng và hạ huyết áp (Áp lực động mạch trung bình MAP <65 mmHg)
Phương pháp: Hồi sức truyền dịch (30 ml / kg) đã được thực hiện. Đáp ứng dịch được xác định là MAP ≥ 65 mmHg và lactate <4 mmol / L. Đánh giá tải trước được thực hiện thông qua SVV, để đánh giá phản ứng dịch.
Kết quả: Nghiên cứu bao gồm 13 nam (43,3%) với độ tuổi 47,8 ± 19,7. So sánh theo cặp cho thấy sự thay đổi đáng kể trong thông số MAP (giá trị P <0,001). Đường cong ROC cho thấy ngưỡng giới hạn 12,5% đối với CO delta để dự đoán khả năng đáp ứng chất lỏng với Diện tích dưới đường cong (AUC) 0,927, độ nhạy 90,0% và độ đặc hiệu 70,0%. ROC cũng cho thấy ngưỡng CO delta 12,5% để dự đoán khả năng sống sót với AUC 0,756, độ nhạy 66,7% và độ đặc hiệu 66,7%.
Kết luận: Sự thay đổi thể tích nhát bóp được đo bằng đo cảm biến tim điện học có thể được sử dụng để dự đoán đáp ứng dịch và khả năng sống sót trong suy tuần hoàn cấp ở những bệnh nhân nhiễm trùng nặng.
- So sánh giá trị cung lượng tim bằng phương pháp không xâm lấn bằng cách sử dụng cảm biến tim điện học và phương pháp xâm lấn với kỹ thuật pha loãng nhiệt ở bệnh nhân ghép nối động mạch vành
Tác giả: Rajput R và cộng sự
Năm: 2014. Tạp chí World Journal of Cardiovascular Surgery.
Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện để so sánh cung lượng tim bằng cách sử dụng Cảm biến tim điện học (EC), một phương pháp theo dõi cung lượng tim liên tục không xâm lấn trong quá trình phẫu thuật tim với cung lượng tim bắt nguồn từ catheter động mạch phổi (PAC).
Thiết kế: Nghiên cứu lâm sàng quan sát tiến cứu
Đối tượng nghiên cứu: 25 bệnh nhân được phẫu thuật động mạch vành bằng bắc cầu tim phổi.
Phương thức và kết quả:
Tổng cộng 150 dữ liệu kép về so sánh giá trị Cung lượng tim (CO) thu được từ phương thức pha loãng nhiệt độ (TDCO) và Cảm biến tim điện sinh học xuyên ngực (TEBCO).
Giá trị TDCO nằm trong khoảng từ 1,8 – 6,9 lít/phút với giá trị trung bình là 4,39/1.16 lít/phút và TEBCO nằm trong khoảng từ 1,8 – 7,1 lít/ phút với giá trị trung bình là 4,21/116 lít/ phút. Phân tích Bland-Altman trung bình cho TDCO và TEBCO cho thấy độ chệch trung bình là 0,18 và giới hạn thỏa thuận là 1,25 – 0,89 lít/ phút và sai số phần trăm (PE) dao động từ 22% – 32%. Độ chính xác của TDCO được đo là ± 16,2% và độ chính xác đối với TEBCO là ± 19,6%. Phân tích đường cong đặc tính hoạt động của máy thu(ROC) giữa TDCO và TEBCO với ngưỡng 15% cho thấy độ nhạy là 84% và độ đặc hiệu là 63% và diện tích dưới đường cong ROC là 0,80.
Kết luận: Đo đo cung lượng tim bằng cảm biến tim điện học có thể mang lại kết quả có giá trị tương đương so với khi đo bằng PAC trong quá trình phẫu thuật tim. Do đó, đo điện tim có thể được sử dụng để đánh giá các biến số huyết động với độ chính xác có thể chấp nhận được về mặt lâm sàng, khi các phương pháp xâm lấn cần tránh hoặc không có sẵn.
- Mối tương quan của thiết bị đo tim điện học và hệ thống theo dõi cung lượng tim bằng pha loãng nhiệt độ liên tục.
Tác giả: Malik V và cộng sự
Năm 2014. Tạp chí World Journal of Cardiovascular Surgery.
Mục đích: Đo hoạt động tim bằng trở kháng (ICG) với những hạn chế của nó trong việc ước tính cung lượng tim (CO) khi so sánh với các phương pháp quy chiếu khác đã dẫn đến sự phát triển của một kỹ thuật mới gọi là Đo cảm biến tim điện học (EC). Mục đích của nghiên cứu này là so sánh EC-CO với CO liên tục (CCO) lấy từ Catheter Động mạch phổi (PAC).
Đối tượng nghiên cứu: 60 bệnh nhân được lên lịch phẫu thuật động mạch vành cần đặt PAC trong phòng mổ.
Phương thức: Điện cực ECG tiêu chuẩn được sử dụng để đo EC-CO. Đo CO đồng thời từ EC và PAC được thực hiện tại ba thời điểm xác định trước và có tương quan với nhau
Kết quả: Mối tương quan cao đáng kể được tìm thấy giữa EC-CO và CCO tại ba thời điểm. Phân tích Bland và Altman cho thấy độ chệch 0,08 L / phút, độ chính xác 0,15 L / phút, với giới hạn hẹp về độ phù hợp(0,13 đến 0,28 L / phút). Sai số phần trăm giữa các phương pháp là 3,59%.
Kết luận: EC-CO và CCO được chấp nhận về mặt lâm sàng và hai kỹ thuật này có thể được sử dụng thay thế cho nhau.
- So sánh kỹ thuật đo cảm biến vận tốc tim điện học và kỹ thuật pha loãng nhiệt trong đo cung lượng tim.
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/17944633/
Fulltext: https://scihub.wikicn.top/10.1111/j.1399-6576.2007.01445.x
Tác giả: Zoremba N và cộng sự
Năm 2007. Quốc gia: Đức. Tạp chí: Acta Anaesthesiol Scandinavia
Mục đích: So sánh phương pháp mới xác định cung lượng tim không xâm lấn dựa trên cảm biến tim vận tốc điện học(EV ‐ CO) với phương pháp pha loãng nhiệt xâm lấn.
Đối tượng nghiên cứu: 50 bệnh nhân có tình trạng nặng
Phương pháp: EV ‐ CO được so sánh với cung lượng tim được đo bằng ống thông động mạch phổi (PA ‐ CO) ở một nhóm (n = 25) và bằng ống thông động mạch đùi (PiCCO ‐ CO) ở nhóm thứ hai (n = 25), đo đồng thời. Các điện cực điện tâm đồ tiêu chuẩn được sử dụng cho các phép đo không xâm lấn và EV ‐ CO được tính bằng phương trình Bernstein – Osypka. Phép đo xâm lấn PA ‐ CO và PiCCO ‐ CO được thực hiện bằng cách tiêm nước muối 0,9% đá và ghi lại các đường cong pha loãng nhiệt.
Kết quả:
Các giá trị chính xác của phép đo EV ‐ CO, PA ‐ CO và PiCCO ‐ CO tương ứng là ± 0,46 [khoảng tin cậy 95% (95% CI), ± 0,06], ± 0,57 (95% CI, ± 0,09) và ± 0,48 l / phút (KTC 95%, ± 0,08 l / phút).
Sự khác biệt trung bình giữa EV ‐ CO và PA ‐ CO hoặc PiCCO ‐ CO tương ứng là –0,05 ± 0,71 và 0,22 ± 0,78 l / phút. Giới hạn thỏa thuận dưới và trên để so sánh EV ‐ CO với PA ‐ CO lần lượt là -1,47 và 1,37 l / phút (95% CI, ± 0,25 l / phút). Khi so sánh EV-CO và PiCCO-CO, giới hạn dưới và trên của –1,34 và 1,78 l / phút (95% CI, ± 0,27 l / phút) được phát hiện. Sai số phần trăm giữa EV ‐ CO và PA ‐ CO hoặc PiCCO ‐ CO lần lượt là 26,5% và 26,4%.
Kết luận: Các giá trị của cung lượng tim được so sánh thống kê giữa các nhóm. Do đó, đo vận tốc cảm biến tim điện học là một phương pháp thích hợp để đánh giá các biến số huyết động với độ chính xác chấp nhận được về mặt lâm sàng
NGHIÊN CỨU TRÊN TRẺ EM & TRẺ SƠ SINH
- 1. Đo cung lượng tim liên tục không xâm lấn ở trẻ sơ sinh: so sánh với siêu âm tim: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/22933092/
Fulltext: https://scihub.wikicn.top/10.1136/fetalneonatal-2011-301090
Tác giả: Noori S và cộng sự
Quốc gia: USA. Xuất bản online lần đầu năm 2011
Đối tượng nghiên cứu: 20 trẻ sơ sinh. 115 phép đo được thực hiện.
Mục tiêu: xác nhận hiệu lực cảm biến điện học cho tốc độ dòng máu (EV) bằng cách tính toán sự phù hợp trong cung lượng tim so sánh các phép đo được thực hiện bằng EV và siêu âm tim
Phương pháp: Trong nghiên cứu quan sát tiến cứu này, cung lượng thất trái (LVO) được đo đồng thời bằng cảm biến điện học cho tốc độ dòng máu EV (LVO (ev)) sử dụng Aesculon và bằng siêu âm tim (LVO (echo)) ở trẻ sơ sinh đủ tháng khỏe mạnh trong 2 ngày đầu sau sinh. Để xác định sự phù hợp giữa hai phương pháp, chúng tôi tính toán sai số (chênh lệch trung bình) và độ chính xác (1,96 × SD của chênh lệch).
Kết quả: Độ chệch và độ chính xác của EV lần lượt là -4 và 234 ml / phút. Các tác giả nhận thấy độ chính xác thực sự của EV tương tự với độ chính xác của siêu âm tim (tương ứng là 31,6% so với 30%).
Kết luận: EV chính xác tương đương so với siêu âm tim khi đo cung lượng thất trái.
- Đo cung lượng tim không xâm lấn ở trẻ nhẹ cân (LBW) và rất nhẹ cân (VLBW): so sánh với siêu âm tim:
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/24724074/
Fulltext: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3971202/
Tác giả: Grollmuss O và cộng sự
Quốc gia: Pháp. Xuất bản năm 2014
Đối tượng nghiên cứu: 28 trẻ sơ sinh đẻ non (17 LBW, 11 VLBW)
Mục tiêu: Nghiên cứu được thiết kế để đánh giá xem EV có thể thay thế cho TTE (Doppler xuyên động mạch chủ) ở trẻ sơ sinh LBW và VLBW hay không.
Phương pháp: có 228 phép đo TTE (Doppler xuyên động mạch chủ) và EV (134 LBW, 94 VLBW) được thực hiện để đo thể tích nhát bóp (SV) và nhịp tim (HR), từ đó tính toán chỉ số trọng lượng cơ thể SV (= SV *) và cung lượng tim CO (= CO *) cho tất cả bệnh nhân. So sánh phương pháp được thực hiện bằng biểu đồ Bland-Altman, độ chính xác của phương pháp được thể hiện bằng cách tính hệ số biến thiên (CV).
Kết quả: CO trung bình * ở tất cả bệnh nhân là 256,4 ± 44,8 (TTE) và 265,3 ± 48,8 (EV) ml / kg / phút. Độ chệch và độ chính xác được chấp nhận về mặt lâm sàng.
Kết luận: So sánh EV / TTE ở trẻ sơ sinh, nghiên cứu này gợi ý rằng EV cũng có thể áp dụng ở trẻ LWB / VLBW như một phương pháp an toàn và dễ xử lý để theo dõi CO liên tục ở NICU và PCICU.
- Đo cung lượng tim không xâm lấn ở trẻ em và thanh thiếu niên béo phì: so sánh với siêu âm tim Doppler xuyên ngực: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/23179019/
Fulltext: https://scihub.wikicn.top/10.1007/s10877-012-9412-7
Tác giả: Rauch R và cộng sự
Quốc gia: USA. Xuất bản năm 2012.
Đối tượng nghiên cứu: 64 người tham gia đã trải qua phép đo CO đồng thời bởi 2 phương pháp: EC sử dụng thiết bị ICON (®) và sử dụng siêu âm tim Doppler qua lồng ngực
Mục tiêu: đánh giá độ tin cậy và độ chính xác của phép đo điện tim (EC) để xác định cung lượng tim (CO) không xâm lấn ở trẻ em và thanh thiếu niên béo phì và so sánh độ chính xác của những kết quả này siêu âm tim qua lồng ngực.
Kết quả: Một mối tương quan có ý nghĩa mạnh mẽ được tìm thấy giữa các phép đo COEC và COEcho (p <0,0001, r = 0,91). Tương quan đáng kể cũng được tìm thấy giữa CO và tuổi (r = 0,37, p = 0,002), cân nặng (r = 0,57, p <0,0001), chiều cao (0,60, p <0,0001) và BMI (r = 0,42, p = 0,001). Sự khác biệt trung bình giữa hai phương pháp (COEC – COEcho) là 0,015 l min (-1). Theo phương pháp Bland và Altman, giới hạn trên và giới hạn dưới có sự phù hợp, được định nghĩa là chênh lệch trung bình ± 2 SD, lần lượt là +1,21 và -0,91 l min (-1).
Kết luận: So với siêu âm tim Doppler qua lồng ngực, đo bằng cảm biến điện học cung cấp kết quả đo CO chính xác và đáng tin cậy ở trẻ em và thanh thiếu niên béo phì.
- Các thông số tim ở trẻ em hồi phục sau bệnh cấp tính so sánh với y văn:
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/23054385/
Fulltext: https://scihub.wikicn.top/10.1007/s10877-012-9401-x
Tác giả: Jackson Wong • Michael S. D. Agus • Garry M. Steil
Quốc gia: USA. Năm xuất bản: 2012
Đối tượng nghiên cứu: 83 trẻ em (từ 2 tuần tuổi đến 21 tuổi) đã được nghiên cứu không có bất thường cấu trúc tim và vừa khỏi bệnh cấp tính
Mục tiêu: phát triển các giá trị tham chiếu cho ứng dụng lâm sàng. Mục đích thứ hai là so sánh các phép đo EC với các giá trị được công bố.
Phương pháp: Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu quan sát tiền cứu với đối tượng tham gia nghiên cứu.
Có một mối quan hệ đường cong có ý nghĩa giữa chỉ số tim (CI) hoặc chỉ số nhát bóp (SI) và tuổi tính theo EC (F-test, p <0,05). Đường cong hồi quy của các thông số tim được báo cáo y văn sử dụng phương pháp pha loãng nhiệt 6 Fick, siêu âm tim và MRI tim là bằng hoặc cao hơn (0-19,6%) giá trị thu được với EC, với giá trị cao hơn có ý nghĩa thống kê (p <0,05 tất cả). Có một mối quan hệ đường cong của CI hoặc SI và tuổi theo EC ở trẻ bình thường. Các thông số huyết động tim trong y văn sử dụng các phương pháp thay thế khác với các thông số thu được bằng EC nhưng đều nằm trong phạm vi cho phép.
Kết luận: Có thể sử dụng EC đo các thông số huyết động, tuy nhiên cần thiết phải điều chỉnh các mục tiêu huyết động theo tuổi cho các liệu pháp hướng tới mục tiêu cho trẻ em thiết bị đo CO này
- Đo cung lượng tim ở trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh so sánh với đo cung lượng tim can thiệp fick:
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/18024954/
Fulltext: https://bjanaesthesia.org/article/S0007-0912(17)34600-7/fulltext
Tác giả: Norozi K và cộng sự
Quốc gia: Đức. Năm xuất bản: 2007
Đối tượng nghiên cứu: 32 bệnh nhi, từ 11 ngày tuổi đến 17,8 tuổi, có trải qua thủ thuật thông tim chẩn đoán phải và trái.
Mục tiếu: đánh giá sự phù hợp giữa các giá trị của cung lượng tim bằng các phép đo EV và các phép đo bắt nguồn trực tiếp Fick(COF) ở trẻ sơ sinh và trẻ em bị dị tật tim bẩm sinh.
Phương pháp: Các phép đo đồng thời CO (EV) và CO (F- Fick) được so sánh ở các bệnh nhi, trải qua thông tim chẩn đoán phải và trái. Đối với các phép đo không xâm lấn cung lượng tim bằng phương pháp đo EC, các điện cực bề mặt tiêu chuẩn được áp dụng cho bên trái cổ và bên trái của ngực. Cung lượng tim được xác định bằng cách sử dụng nguyên tắc Fick-oxy trực tiếp được tính bằng đo trực tiếp lượng tiêu thụ oxy (VO2) và xác định xâm lấn sự chênh lệch hàm lượng oxy động mạch-tĩnh mạch.
Kết quả: Một mối tương quan tuyệt vời (r = 0,97) đã được tìm thấy giữa CO (EV) và CO (F) (P <0,001). Độ dốc của phương trình hồi quy [0,96 (SD 0,04)] không khác biệt đáng kể. Độ chệch giữa hai phương pháp (CO (EV) -CO (F)) là 0,01l tối thiểu (-1).
Kết luận: CO (EV) thể hiện sự đồng nhất với dữ liệu thu được từ CO (F) ở trẻ sơ sinh và trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh.
- Cung lượng tim liên tục không xâm lấn ở trẻ em: Kinh nghiệm ban đầu ở 402 bệnh nhi:
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/24916144/
Fulltext: https://scihub.wikicn.top/10.1111/pan.12441
Tác giả: Coté CJ và cộng sự
Quốc gia: USA (1) và Trung Quốc (2). Năm xuất bản: 2014.
Đối tượng nghiên cứu: 402 trẻ em tham gia nghiên cứu..
Mục tiêu: Xác định xem dữ liệu về cung lượng tim (CO) liên tục có cung cấp thông tin bổ sung hữu ích và đáng tin cậy cho các máy theo dõi gây mê hiện tại cho các bác sĩ hay không.
Phương pháp: Các phép đo trong 10 giây (tính trung bình của 20 nhịp tim trước đó) được tải xuống các tệp riêng biệt để so sánh sau này với các màn hình OR thông thường.
Kết quả: Dữ liệu từ 374 trẻ em( do mất liên lạc hoặc đặt điện cực sai); 292.012 phép đo trong 58.049 phút gây mê đã được thực hiện ở những bạn này(1 ngày tuổi đến 19 tuổi và từ 1 đến 107 kg). Bốn trường hợp giảm ≥25% chỉ số tim ít nhất 1 phút trước khi có thay đổi rõ về mặt lâm sàng; 18 sự kiện ở 14 trẻ được xác nhận có biểu hiện của các biện pháp huyết động khác; 8 biến cố có thể biểu hiện thiếu máu vì các thông số quan sát được dường như không phù hợp với các thông số của các màn hình khác; ba sự kiện khác ghi nhận chỉ số đột quỵ giảm với nhịp tim nhanh.
Kết luận: Đo các thông số huyết động bằng cảm ứng điện học cung cấp các thông số tim mạch thời gian thực liên quan đến việc phát triển các biến cố huyết động.
- Cảm biến tim điện học (EC): Một giải pháp đáng tin cậy để ước tính cung lượng (CO) tim ở trẻ em bị bất thường cấu trúc tim.
https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S1053077016306632.
Fulltext: https://scihub.wikicn.top/10.1053/j.jvca.2016.12.009
Tác giả: Narula J, và cộng sự
Quốc gia: Ấn Độ. Năm 2017.
Mục tiêu: So sánh cung lượng tim (CO) thu được khi đo bằng (EC) và thông động mạch phổi (PAC) ở bệnh nhi mắc bệnh bất thường cấu trúc tim bẩm sinh.
Thiết kế: Nghiên cứu quan sát, tiến cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu bao gồm 50 bệnh nhân được có lịch thủ thuật thông tim.
Phương pháp: Bộ ba dữ liệu về CO được thu thập đồng thời từ thiết bị đo tim ICON (Osypka Medical, Berlin, Đức) và PAC tại các thời điểm xác định trước sau đây— (1) T1: 5 phút sau khi đưa canuyn động mạch và tĩnh mạch và (2) T2: 5 phút sau khi kết thúc thủ thuật; sau đó lấy trung bình của 3 lần đọc. Phân tích độ tin cậy và phân tích Bland-Altman được thực hiện để xác định sự phù hợp, sai số trung bình và độ chính xác của CO được đo bằng EC.
Phép đo và kết quả:
Chỉ số tim EC đo được 4,22 (3,84-4,60) L / phút / m2 và chỉ số tim PAC: 4,26 (3,67-4,67) L / phút / m2 không có ý nghĩa thống kê (giá trị p> 0,05) tại T1. Phân tích Bland-Altman cho thấy sai số trung bình là 0,0051 L / phút / m2 và giới hạn chính xác là ± 0,4927 L / phút / m2. Hệ số tương quan nội bộ là 0,789 và Cronbach’s alpha là 0,652, cho thấy khả năng tái lập tốt và tính nhất quán giữa hai kỹ thuật. Phân tích sau khi kết thúc thủ thuật đặt catheter cũng cho thấy sự phù hợp và độ tin cậy cao giữa hai kỹ thuật.
Kết luận: Chỉ số tim được đo ở trẻ em có bất thường về cấu trúc tim bằng cách sử dụng EC là đáng tin cậy và có giá trị tương đương so với đo bằng PAC. Công nghệ EC rất đơn giản và dễ sử dụng.
- Sự chuyển dịch huyết động ở trẻ mới sinh: Một công cụ mới để theo dõi cung lượng tim không xâm lấn
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/27529179/
Fulltext: https://sci-hub.se/https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/27529179/
Tác giả: Freidl T và cộng sự.
Quốc gia: Áo. Năm xuất bản: 2017.
Bối cảnh: Có sự thay đổi huyết động đáng kể xảy ra trong những phút đầu tiên sau khi sinh. Hiện nay, chỉ có nhịp tim (HR) và độ bão hòa oxy động mạch được sử dụng thường quy để theo dõi chuyển đổi huyết động sau khi sinh.
Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu này là lần đầu tiên đánh giá liên tục những thay đổi huyết động chuyển dịch ở trẻ đủ tháng bằng cách sử dụng phương pháp đo cảm biến vận tốc điện (EV), một phương pháp mới theo dõi cung lượng tim không xâm lấn (NICOM), dựa trên cảm biến điện (EC)
Đối tượng nghiên cứu: 100 trẻ sơ sinh đủ tháng được sinh bằng phương pháp sinh mổ chọn lọc.
Phương pháp: Trẻ sơ sinh đủ tháng được sinh bằng phương pháp sinh mổ chọn lọc được đo NICOM trong vòng 15 phút đầu tiên sau khi sinh. Phép đo theo từng nhịp tim trong khoảng thời gian 10 giây được sử dụng để tính cung lượng tim (CO) cho mỗi phút sau khi sinh. Dữ liệu CO chỉ được chấp nhận khi chỉ số chất lượng tín hiệu (SQI) duy trì> 80% trong thời gian đo 10 s.
Kết quả: 100 trẻ trải qua 1.500 lần đo NICOM. 1.143 (76,2%) phép đo bị loại vì SQI <80%. HR và CO cho thấy xu hướng tăng trong những phút đầu tiên, và giảm đáng kể từ phút 3 (HR) và 4 (CO), cho đến phút 12 và 10, tương ứng. Thể tích nhát bóp vẫn ổn định trong suốt thời gian quan sát.
Kết luận: Kết quả đo được từ NICOM tương tự khi đo bằng siêu âm tim. NICOM có thể giúp đo CO liên tục. Nghiên cứu này ủng hộ ý kiến rằng CO có liên quan chặt chẽ đến HR ở trẻ sơ sinh.
- Đo vận tốc bằng cảm biến điện (EV) và siêu âm tim qua lồng ngực để theo dõi cung lượng tim không xâm lấn ở trẻ em sau phẫu thuật tim:
Tác giả: Neurinda P và cộng sự.
Quốc gia: Indonesia. Năm xuất bản: 2015
Mục tiêu: Chúng tôi đã tìm cách đánh giá sự thống nhất của CO được đo bằng EV và siêu âm tim Doppler xuyên ngực (TTE).
Thiết kế: Nghiên cứu quan sát tiến cứu.
Đối tượng tham gia: 30 trẻ em <18 tuổi tại Đơn vị chăm sóc tích cực tim mạch (CICU) sau phẫu thuật tim tại bệnh viện nhi hạng ba ở Shizuoka, Nhật Bản.
Phương pháp: Tất cả bệnh nhân được đo SV và CO bằng EV và TTE từ 1 đến 3 ngày sau phẫu thuật. Chúng tôi dựa trên những dữ liệu về nhân khẩu học của bệnh nhân, diện tích bề mặt cơ thể, dấu hiệu sinh tồn SV, CO, xét nghiệm, loại thuốc được sử dụng và loại hoặc phẫu thuật. Có mối tương quan có ý nghĩa giữa EV và TTE ở các giá trị SV và CO (tương ứng r = 0,909, p <0,001 và r = 0,831, p <0,001). Phân tích Bland-Altman cho thấy có sự thống nhất tốt giữa EV và TTE trong các giá trị SV và CO (độ lệch lần lượt là 1,33 mL, 0,08 L / phút và 0,02 L / phút / m2 và giới hạn phù hợp từ -8,59 đến 9,93 mL và -0,97 đến 1,05 L / phút, tương ứng). Sai số phần trăm trung bình đối với các giá trị SV và CO giữa EV và TTE lần lượt là 13,76% và 13,19%.
Kết luận: Có sự tương quan tốt và thống nhất lâm sàng giữa EV và TTE trong việc đo SV và CO khi theo dõi huyết động của bệnh nhi sau phẫu thuật tim